Giặt đá – stone wash đôi khi cũng
được gọi là giặt enzyme. Đây là phương pháp phổ biến nhất trong quá trình sản
xuất denim. Một chiếc quần jean cũ sẽ có những sợi chỉ xanh và trắng xuất hiện
trên sợi chỉ dọc và ngang của vải. Trong ngành thời trang, ban đầu những chiếc
quần này đều mới và giặt enzyme sẽ tạo cho chúng những đặc điểm trông như cũ.
Mẫu stonewash của Denham Jeans
Giống như tên gọi của phương pháp
giặt đá, quần jeans được nhuộm mới hoàn toàn được cho vào những chiếc máy giặt
lớn và quay cùng với đá. Cho thêm đá bột sẽ làm cho những chiếc quần jeans
trông như đã cũ. Đá bọt làm sờn bề mặt của jeans giống như giấy nhám và loại bỏ
những phân tử thuốc nhuộm khỏi bề mặt vải. Đát bọt được sử dụng từ khi bắt đầu
xuất hiện jeans giặt đá vào đầu những năm 80. Tuy nhiên, giặt đá cũng có một số
nhượng điểm. Đó là mức độ làm sờn vải rất khó để kiểm soát, mức độ sờn quá nhẹ
sẽ không mang lại sản phẩm mong muốn, còn nếu quá mạnh sẽ làm hỏng vải thường
là ở các đường may và đường eo. Hiệu ứng của mỗi lượt giặt jeans không thống
nhất, và thường thì một số chiếc quần bị sờn quá nhiều.Quá trình này cũng không
thể lựa chọn. Tất cả mọi thứ trong máy giặt đều được làm sờn, bao gồm cả những
chiếc khuy đinh tán hay kim loại khác vào vành máy giặt. Điều này làm giảm chất
lượng của sản phẩm và tuổi thọ của thiết bị đồng thời tăng chi phí sản xuất.
Các quy định về môi trường đã tập trung nhấn mạnh ngành dệt may cần hạn chế mức
ô nhiễm với việc xử lý nước và vứt bỏ đá bọt đã sử dụng.
Stonewash Jeans
Một phương pháp được biết đến là
“giặt đá sinh học – Bio-stoning” được giới thiệu ở châu Âu vào đầu những năm
1990. Kỹ thuật này nhanh chóng được cả thế giới tiếp nhận trong năm sau đó.
Giặt đá sinh học là sự tác động của enzyme đến chất vải cũng giống như tác động
của đá bọt. Enzyme đã được sử dụng trong ngành dệt may để loại bỏ hồ vải và cặn
sắp khỏi các chất liệu thô để chúng được hoàn tất giống nhau. Enzyme sử
dụng trong giặt đá sinh học được gọi là cellulases.
Gen cho enzyme cellulasses đầu
tiên được tách khỏi nấm Trichoderma reesei và sau đó vi khuẩn được
đặt vào để sản xuất hàng loạt. Cellulases tiêu hóa cellulose – thành phần chính
của cotton và các loại vải tự nhiên khác. Cellulose là polime gluco đóng vai
trò hỗ trợ cho thành tế bào thực vậy. Cellulases tấn công cellulose ở phần
ngoài của từng sợi cotton và phá vỡ một số liên kết nguyên tử, chỉ để những
phân tử nhuộm màu bị lỏng ra từ bề mặt vải, còn phần bên trong sợi cotton vẫn
nguyên vẹn.
Vào thời kỳ đầu, giặt đá sinh học
có một vấn đề đó là phai màu ở phía sau. Hiện tượng này xảy ra khi những phân
tử nhuộm màu lỏng ra và bám vào bề mặt sau của vải. Tuy nhiên bằng cách duy trì
độ pH từ 6-8, vấn đề này đã được giải quyết. Hiện nay, giặt đá sinh học có thể
mang lại hiệu ứng như giặt đá truyền thống, nhưng không làm hỏng độ sờn của vải
và dụng cụ.
Cellulases và các loại enzyme
khác trong ngành dệt may có nhiều loại với các tính chất khác nhau. Điều này
tạo ra sự linh hoạt cho các nhà thiết kế. Khả năng lựa chọn bề mặt denim nào
cần sửa chữa mà không phá hỏng đặc tính của vải đã giúp các nhà thiết kế có
nhiều cơ hội sáng tạo hơn. Ví dụ những logo sặc sỡ có thể được in trên khuy kim
loại hoặc mác bằng da mà không lo sẽ bị đá bọt làm sờn.
- Giặt đá sinh học là phương pháp tiết kiệm và
thân thiện nhất với môi trường. Rác thải, ô nhiễm, sự khác biệt về chất
lượng sản phẩm đều giảm xuống. Và không giống như đá bọt hay axit sẽ sử
dụng hết trong quá trình giặt, enzyme có thể tái chế.
- Chỉ một lượng nhỏ enzyme có thể thay thế vài
chục kg đá bọt. Vì vậy sản lượng có thể tăng lên 30-50% vì phần không gian
chứa đá bọt trong máy giặt bây giờ có thể cho thêm nhiều quần jeans hơn
nữa.
- Bên cạnh đó, dùng enzyme không tốn quá nhiều
thời gian và không tốn nhiều tiền để loại bỏ đá ra khỏi quần jeans khi
giặt xong.
- Hơn nữa, bụi đá bọt có hại cho sức khỏe của
nhân viên. Hầu hết quần jeans ngày nay đều sử dụng giặt đá sinh học.
Trong quá trình giặt đá, đá bọt
thường được sử dụng trong máy giặt để tạo ra hiệu ứng. Để tăng ảnh hưởng của
đá, đôi khi enzyme được cho thêm. Thường thì enzyme được sử dụng ở điều kiện
nhẹ, nhưng có thể đôi khi ở nhiệt độ cao từ 40-60 độ C.
Các bước cơ bản
- Loại bỏ lớp hồ
- Giặt đá hoặc giặt đá sinh học
- Giũ xà phòng
- Làm mềm vải
Các ứng dụng thêm
Chất chống phai màu phía sau
Có thể màu chàm sẽ dính lại vào
vải trong quá trình loại bỏ hồ, vì vậy để tránh hiện tượng này, một số chất xúc
tác được sử dụng. Các chất chống phai này có nguồn gốc từ chất tẩy và đóng vai
trò là chất xúc tác cân bằng.
Hiệu ứng bạc màu
Trong trường hợp mài cát, cần áp
dụng chất xúc tác oxy hóa để nâng cao hiệu ứng bạc màu.
Một phương pháp đó là sử dụng
Hydrogen peroxide cho vào máy giặt, chất này sẽ loại bỏ những phân tử chàm
không cố định khỏi vùng mài và tạo tương phản sáng hơn, rõ ràng hơn. Số lượng
peroxide trung bình sẽ không làm ảnh hưởng đến màu sắc mà chỉ đóng vai trò làm
sạch.
Thuốc
tím
Trong một số trường hợp, thuốc tím được áp dụng lên
các vùng mài với súng phun hoặc chổi sơn. Phương pháp này được sử dụng khi có
yêu cầu hiệu ứng bạc màu mạnh. So với sử dụng peroxide thì phương pháp này đem
lại hiệu ứng sáng hơn và trắng hơn.
Nhiệt độ
Nên sử dụng xà phòng trong nước
nóng. Nhiệt độ cao sẽ làm tăng khả năng xâm nhập của các phân tử nước vào vải
và tăng tỷ lệ hoạt động của nguyên tử xà phòng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét